BÀI CHIA SẺ VỀ LỄ TRUYỀN TIN
Mẹ Maria trong mầu nhiệm truyền tin "Ai ở trong Đức Kitô thì người ấy là tạo vật mới: vì cũ đã qua và mới đã thành tựu. Nhưng mọi sự đều do tự Thiên Chúa, Đấng đã giao hòa ta lại với Ngài, nhờ Đức Kitô, và đã ban cho chúng ta được giúp việc giao hòa đó. Vì chính nhờ Đức Kitô thì Thiên Chúa, Đấng mưu cuộc giao hòa thế gian với chính mình Ngài, đã không còn đếm xỉa đến các lầm lỗi của họ, và trao cho chúng tôi sứ mệnh laon bao ơn giao hòa. Là sứ giả thay mặt Đức Kitô, chúng tôi tin chắc rằng Thiên Chúa dùng chúng tôi để rao giảng. Vậy nhân danh Đức Kitô, chúng tôi xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. Đấng không hề biết tội lỗi, thì vì ta, Thiên Chúa đã làm cho Người thành 'sự tội', ngõ hầu trong Ngài ta được trở thành 'sự công chính' của Thiên Chúa" (I Cor. 5:17-21). Trong chương vừa kể, thánh Phaolô nói đến những yếu tố tích cực và tiêu cực của ơn cứu độ tức là: Cũ đã qua, mới đã thực hiện. Chúa Cha là chủ động thứ nhất của ơn cứu độ. Chúa Con là chủ động thứ hai, các Tông đồ là chủ động thứ ba. Còn chúng ta, chúng ta phải làm hòa với Thiên Chúa, đó là sự sống con cái Chúa. Chúa Giêsu khai mạc cuộc cứu đời bằng việc Nhập Thể. Rồi Ngài tiếp tục công việc đó trong suốt cuộc đời và kết thúc bằng một cuộc tử nạn trên núi sọ. Khi sống lại, lên trời, thì Chúa lại chính là Đấng ban Thánh Thần một cách hiển hiện trong ngày lễ Hiện Xuống. Như thế là Chúa Giêsu đã hoàn tất công việc cứu thế khách quan. Và đó là công việc lịch sử của Chúa Giêsu làm ngày xưa. Từ tòa thiên quốc, và nhờ phép Thánh Thể, Chúa Giêsu tiếp tục công việc cứu thế chủ quan, nghĩa là Ngài áp dụng công việc cứu thế Ngài đã thực hiện xưa, vào từng tín hữu, cho tới ngày tái lâm. Đó là công việc Chúa Giêsu làm hiện nay và mãi mãi. Chiếu theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã cộng tác một cách đầy đủ và trọn vẹn trong việc cứu độ này, như một Evà mới của Chúa Giêsu, là Adam mới. Chính Đức Mẹ ban cho ta Đấng Cứu Thế sau khi đã ưng thuận chịu thai Ngài một cách ý thức, tự do và đầy công phúc trong ngày truyền tin. Rồi Đức Mẹ đã cộng tác với Chúa Con trong suốt cuộc sống, từ Belem cho tới Calvario. Đức Mẹ cũng hiện diện trong ngày Hiện Xuống. Và sau khi lên trời cả hồn lẫn xác, thì với tư cách là mẹ và là hoàng hậu, Đức Mẹ cộng tác với Chúa Giêsu trong việc áp dụng ơn cứu độ cho mọi người. Đấy là công việc thực hiện xưa, nay và mãi mãi. Để hiểu hơn nữa về việc Đức Mẹ cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứ thế, đặc biệt là trong mầu nhiệm Nhập thể, chúng ta nên tìm hiểu thêm Công Đồng Vaticanô II nói gì về vấn đề này. Trước hết, ta nên biết rằng một trong những điểm nổi bật của Công Đồng là việc nhấn mạnh đến giá trị cứu độ của mầu nhiệm nhập thể. Vì theo đạo lý Công Đồng thì trong lúc nhập thể, khi thực hiện việc " này con đến để làm theo thánh ý Cha", thì Chúa Giêsu bắt đầu công cuộc cứu thế. Các mầu nhiệm khác chỉ là những tiến triển của mầu nhiệm tiên khởi này. Đối với Đức Mẹ cũng vậy. Khi thứ tiếng "xin vâng" trong phút thiên thần truyền tin, thì Đức Mẹ bắt đầu làm mẹ Đấng Cứu Thế. Chính trong lúc đó, Chúa Thánh Thần hoạt động để thực hiện việc cấu tạo nên thân xác Chúa Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ, và nhờ đó Chúa Giêsu mới bắt đầu thực hiện được việc cứu thế. Và vì Đức Mẹ là Mẹ, cho nên cũng trong lúc ấy Đức Mẹ đã "xin vâng" để cộng tác với Con trong mọi sự. Vì thế tất cả các mầu nhiệm khác về Đức Mẹ, kể cả việc Đức Mẹ hiện diện ở núi Sọ, chỉ là những phát triển và áp dụng của mầu nhiệm "xin vâng" trong ngày truyền tin. Từ trước tới nay, người ta thường kể tới sự hiện diện của Đức Mẹ tại chân đồi Calvario, để minh chứng sự đồng công cộng tác của Đức mẹ trong việc cứu thế. Nhưng theo Công Đồng Vaticanoo II thì sự hiện diện của Đức Mẹ ở núi Sọ chỉ là hậu quả của lời "xin vâng" trong ngày truyền tin. Vì thế Chúa Giêsu không cần hỏi sự đồn gý của Đức Mẹ để tuyên bố Ngài là mẹ loài người, khi trao phó Gioan cho Đức Mẹ. Vì sự đồng ý đó đã được biểu lộ ngay trong ngày truyền tin. Như thế chúng ta có thể quả quyết rằng, chiếu theo Thánh kinh và Lưu truyền, Công Đồng Vaticanô II đã nêu lên một điểm quan trọng trong mầu nhiệm truyền tin, khi quả quyết rằng từ lúc đó Đức Mẹ bắt đầu hoạt động trong việc cộng tác cứu đời (L.G.). Phải, Đức Mẹ bắt đầu cộng tác trong việc cứu thế ngay từ lúc truyền tin vì hai lý do: 1. Đức Mẹ đã ý thức và tự do nhận làm Mẹ Chúa Cứu Thế, Đấng sẽ là sự sống của nhân loại. 2. Trong đức tin và vâng phục, Đức Mẹ đã cộng tác với Con của Ngài, và các việc Con Ngài sẽ làm. Và Đức Mẹ cộng tác như một "nữ tới" đối với chủ, khi thưa: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền. Để rõ hơn về địa vị của Đức Mẹ trong công cuộc cộng tác cứu thế, chúng ta cũng nên hiểu lý do của mầu nhiệm truyền tin. Theo đạo Công Đồng Vaticanô II thì vai chủ động trong mầu nhiệm truyền tin là Chúa Cha, Đấng là Cha hay thương xót. Chiếu theo chương trình tự do đã có từ đời đời, Ngài có sáng kiến và quyết định ban cho nhân loại một Đấng Cứu Thế, và ban cho Đấng Cứu Thế một người Mẹ, một người mẹ được chọn giữa con cái loài người, để nhờ đó Đấng Cứu Thế sẽ trở thành cùng dòng máu với gia đình nhân loại, là kẻ sẽ được cứu độ. Việc làm Mẹ Chúa Cứu Thế không phải chỉ là một tác động thể lý, nhưng còn là một hiệu quả của một sự ưng thuận đầy ý thức và tự do của Đức Mẹ, Đấng đã được Chúa tièn định trong công việc trọng đại này. Công Đồng nói, "Chúa Cha Đấng hay thương xót, đã muốn sự đồng ý của Đức Mẹ, trước khi có sự Nhập thể của Ngôi Lời." (n.56). Và đấy là lý do tại sao có chương Phúc âm thực ý vị của Thánh Luca (1:26-38) tả về câu truyện truyền tin, về cuộc đối thoại giữa Thiên Thần và Đức Mẹ, và sau cùng là sự đồng ý của Mẹ Maria. Như thé là sự chấp nhận đầy ý thức và tự do của Đức Mẹ đối với mầu nhiệm Nhập Thể là một điều đã có trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Vì cũng như do một Phụ Nữ mà mọi người phải chết, thì cũng nhờ một Phụ Nữ mà nhân loại được sống (n.56). Với những lời lẽ đó Công Đồng muốn nhắc lại nguyên tắc "tương phản" mà thánh Ireneo đã đề nghị. Nghĩa là chương trình cứu độ tương phản lại chương trình phá hoại. Và nhứ thế Đức Maria là Tân Evà, Ngài sửa lại những gì Evà làm đổ vỡ.
|